Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Tiểu sử Văn Cao:

Tiểu sử Văn Cao:  



  
      Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923 tại làng Lạch Trai (gần Hải Phòng) mất ngày 10/7/1995 tại Hà Nội. Nguyên quán làng An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tiểu học trường Bonnal, trung học trường dòng Saint-Joseph, tại đây ông được học thêm âm nhạc. Cha là Nguyễn Văn Tề làm cai máy nước. Vì cha bị mất việc, Văn Cao phải bỏ học, làm điện thoại viên ở Nhà bưu điện Hải Phòng. Được một tháng, bỏ việc.

        Cuối 1939, Văn Cao viết ca khúc đầu tiên Buồn tàn thu, ảnh hưởng Lê Thương. Đầu năm 1940, bản nhạc được Phạm Duy đem đi hát ở khắp nơi. 1940, Văn Cao đi Hà Nội, Huế, Sài gòn. Trong chuyến đi này, Văn Cao có dịp tiếp xúc với phong cảnh nên thơ và âm nhạc trữ tình của Huế, thi ca của Hàn Mặc Tử ở Sàigòn. Từ điển văn học ghi:“1940, vào Nam kiếm sống, làm họa sĩ trang trí nội thất cho cho một hãng tư nhân ở Sài gòn, gần một năm. Bị chủ quỵt tiền công nên bỏ việc ra Bắc” (Nguyễn Huệ Chi, Vân Long). Điểm này không thấy ghi ở các tài liệu khác.

         Thời kỳ 1940-1943, Văn Cao sáng tác sung mãn nhất, song song với những ca khúc lịch sử là những ca khúc lãng mạng trữ tình: Bạch Đằng GiangGò Đống ĐaThăng Long hành khúc, Thu cô liêuCung đàn xưa, Bến XuânSuối mơThiên Thai, Trương Chi… Cũng trong khoảng 1940-1943, một sự cộng tác văn nghệ và hoạt động cách mạng gắn bó hai nhân tài: Văn Cao-Phạm Duy.       

          Năm 1942, Văn Cao lên Hà Nội học dự thính (auditeur libre) trường Mỹ Thuật Đông Dương, và thơ văn của ông được Vũ Bằng đăng trên Tiểu thuyết thứ bẩy.

         1943, triển lãm tranh lần đầu ở Salon Unique (Triển lãm Độc đáo). Tác phẩm Les Suicidés (Những kẻ tự sát) của Văn Cao gây tiếng vang trong giới hội hoạ, đã có ý thức cách mạng (theo Tạ Tỵ).

         1944, Văn Cao được Vũ Quý, quyền bí thư Thành Ủy Hà Nội, giác ngộ vào Việt Minh, giao công tác viết bài hát cho khoá Quân chính kháng Nhật, Văn Cao sáng tác Tiến quân ca.

      1945, Văn Cao vào Đội Trừ Gian. Tháng 7/45, bắn chết Đỗ Đức Phin [bị Việt Minh coi là gián điệp cho Nhật] ở Hải Phòng. Bắn hụt Cung Đình Vận và Võ Văn Cẩm tại Hà Nội. Làm báo Lao Động (bí mật). Văn Cao tự tay chép lời và nhạc Tiến quân ca vào đá (litho), in trên Lao Động số 1, tháng 11/1944.

       1945, sáng tác Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc (thơ), in trên Tiên Phong số 9, tháng 4/46, và một loạt các ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ Hải quânChiến sĩ Không quân, Bắc Sơn. Bài Không quân Việt Nam, đăng trên Tiên Phong tháng 8/1946, sau này trở thành bài đoàn ca của Không quân Việt Nam Cộng Hoà.

       Ngày 17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến quân ca được Phạm Duy “cướp micro” hát lần đầu tiên và duy nhất tại nhà Hát Lớn, Hà Nội (theo Văn Cao).

       Ngày19/8/1945, Việt Minh “cướp chính quyền”, dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong do Văn Cao điều khiển hát bài Tiến quân ca tại quảng trường Nhà hát lớn.

       Giữa tháng 9/1945, Vũ Quý bị chết trong một hoàn cảnh bí mật.

       Đầu năm 1946, Quốc hội khoá I công nhận Tiến quân ca là Quốc ca Việt nam.

       1946, Văn Cao sáng tác bài thơ Ngoại ô mùa đông 46, in trên Văn Nghệ số 2, tháng 4/1948.

       Theo Tạ Tỵ và Vũ Bằng, Văn Cao có vợ trước cách mạng tháng Tám. Nhưng có lẽ chỉ mới đính hôn, sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/46), Văn Cao và gia đình Thúy Băng rời Hà Nội ra chợ Đại (gần Hà Đông, thuộc Liên Khu Ba) mới chính thức làm lễ cưới ở thôn Ba Thá. Ở Liên Khu Ba không được bao lâu, Văn Cao nhận được chỉ thị lên Phú Thọ, rồi lên Lào Cai, mở Quán Biên Thùy trá hình làm tình báo trong Liên Khu 10, từ xuân 1947 đến thu 1947. Phạm Duy có lên hát ở đây.

       Mùa thu 1947, Văn Cao được lệnh về Vĩnh Yên làm báo Độc Lập. Rồi lại được lệnh trở lên Việt Bắc. Trên đường ngược sông Lô lên Phú Thọ, Văn Cao mục kích chiến địa hoang tàn: Tháng 10/47, quân Pháp, gồm mười lăm tiểu đoàn, chia làm nhiều đạo tấn công Việt Bắc, mục đích tiêu diệt Bộ chỉ huy kháng chiến, nhưng không thành. Cụ Nguyễn Văn Tố (Bộ trưởng không bộ) bị chết. Ngày 7/10, Pháp chiếm Sơn Tây. 12/10, Việt Minh kêu gọi triệt để áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến. 13/10 quân Pháp chiếm Bắc Cạn, Cao Bằng. 20/10 Pháp chiếm Yên Bái. 21/10 Pháp chiếm Chapa. 30/10/47 Pháp chiếm Lao Cai. [Bản thảo Kiều Loan của Hoàng Cầm bị mất, vì phải ném xuống hồ Ba Bể cùng các bản thảo khác].

       Theo Phạm Duy, sau chiến thắng sông Lô, Cục Chính trị điều động các nhạc sĩ viết về Sông Lô để kích động tinh thần chiến sĩ: Lương Ngọc Trác sáng tác Lô Giang; Văn Cao, trường ca Sông Lô (mùa đông 1947, in trên Văn Nghệ số 1, tháng 3/48); Đỗ Nhuận: Du kích sông Thao; Nguyễn Đình Phúc: Bến bình ca; Phạm Duy: Tiếng hát trên sông Lô (Tuyên Quang, 1947).Trường ca Sông Lô được Phạm Duy đánh giá là “tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương” (Hồi ký II, trang 122).

       Tháng 3/1948, Văn Cao được kết nạp vào Đảng. Sáng tác Ngày mùa.

       Cuối năm 1948, Văn Cao được lệnh về Liên Khu Ba. Gặp lại Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị… Sáng tác Tiến về Hà Nội. Tổ chức triển lãm chung, bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình.

       Giữa năm 1949, Văn Cao lại được lệnh trở lên Việt Bắc (Theo Hoàng Văn Chí, vì sợ gia đình Văn Cao về thành, Việt Minh điều động Văn Cao lên Việt Bắc). Chuyến đi rất gian nan nguy hiểm (theo Nguyễn Thụy Kha).

       Đầu 1950, Pháp đánh Liên Khu Ba, Đống Năm (Thái Bình) bị phá nát. Văn nghệ sĩ, người thì vào Liên Khu Tư vùng tướng Nguyễn Sơn, người thì về thành. Trong số những người về thành có: Vũ Bằng, Kim Tiêu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Phan Tại, v.v…

       Tại Việt Bắc, Văn Cao tham gia chiến dịch biên giới. Phụ trách giảng dạy ở trường Âm Nhạc Việt Bắc. Sáng tác: Tiểu đoàn Lũng Vài, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch, Công nhân Việt nam, Toàn quốc thi đua

       1952, Văn Cao được cử đi Mạc Tư Khoa trong phái đoàn văn hoá Trần Huy Liệu. Theo Hoàng Văn Chí, Trong dịp này Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một Liên Xô là Chostakovitch”. Nhưng trong các tài liệu khác, không thấy nói đến cuộc gặp gỡ này. Có thể vì Chostakovitch là người có “vấn đề”, số phận cũng trầm luân, tương tự Văn Cao?

       Hoàng Văn Chí viết tiếp: “Tuy nhiên sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Văn Cao bắt đầu tỏ ý thất vọng: Liên Xô không phải là thiên đường như ông vẫn tưởng tượng. Thêm vào đấy, khi ông về nước thì cuộc đấu tố địa chủ cũng vừa bắt đầu, ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố điển hình ở Việt Bắc”. (Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 221)       Nguyễn Thụy Kha, viết về chuyến đi Liên Xô như sau:

       Được chọn đi thăm Liên Xô trong phái đoàn của ông Trần Huy Liệu, Văn Cao lần đầu tiên xuất ngoại, lần đầu tiên mở mắt nhìn ra thế giới của chủ nghiã xã hội -một lý tưởng mà chàng tôn thờ, đeo đuổi suốt tuổi trẻ (…)

       Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, cái chết đầy bí hiểm của Vũ Quý -người giác ngộ chàng, dẫn dắt chàng vào con đường cách mạng- đã làm chàng choáng váng. (…)

       Sang Liên Xô, tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc với “thành trì của chủ nghiã xã hội”, “Thiên đường của loài người”, Văn Cao mới vỡ lẽ ra nhiều” (Nguyễn Thuỵ Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 64-65).

       Có thể nói, chuyến đi Liên Xô 1952, đối với Văn Cao tương tự như chuyến đi Liên Xô 1936 đối với André Gide: nhìn thấy mặt thật của “thiên đường”.

       1954, hoà bình lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc của đài Phát thanh Hà Nội.       1956, tham gia Nhân Văn Giai Phẩm với bài thơ Anh có nghe không, đăng trên Giai phẩm mùa xuân. Sáng tác trường ca Những người trên cửa biển, một đoạn in trên Giai phẩm mùa thu, tập II.< 1958, bị kỷ luật, nhưng không nặng như các thành viên chính, chỉ phải đi thực tế Điện Biên cùng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Đến Hai Lót, Văn Cao bị đau dạ dày, được đưa về bệnh viện Lai Châu. Sau Nhân Văn, người ta đã định chọn Bài ca cách mạng tiến quân của Đỗ Nhuận để thay thế, nhưng rồi Tiến quân ca vẫn được giữ lại. Các tác phẩm khác của Văn Cao bị cấm. Chìm vào quên lãng trong ba mươi năm, Văn Cao sống cô đơn và gian khổ như các thành viên NVGP khác. Để sống, ông vẽ bìa sách, minh họa cho các báo, trang trí sân khấu, làm nhạc đệm cho một số phim…

       Sau ngày thống nhất đất nước, Văn Cao sáng tác Mùa xuân đầu tiên (1976), không được hát, có lẽ vì những câu “Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người”.       1980, Hiến Pháp mới không ghi Tiến quân ca là quốc ca. Trong các buổi chào cờ, người ta cử nhạc. Không lời.

       1981, một cuộc “vận động sáng tác quốc ca” được tổ chức quy mô, có thi tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn được bài nào thay thế.

       1983, lễ mừng Văn Cao 60 tuổi được tổ chức. Các bản nhạc Thiên Thai, Trương Chi, Suối Mơ… được tình diễn trở lại.

       1988, Văn Cao được chính thức “phục hồi” cùng các thành viên NVGP. Tập nhạc Thiên Thai và tập thơ  được phép xuất bản.

       18/8/1991, trên báo Tiền Phong chủ nhật số 26, xuất hiện bài viết: Tiến quân ca có hai tác giả? của Tô Đông Hải. Lập luận: Văn Cao chỉ viết phần nhạc, lời của Đỗ Hữu Ích. Văn Cao trả lời, trong bài phỏng vấn của Nguyễn Thụy Kha ngày 7/10/91. (Văn Cao vui và buồn sang tuổi cổ lai hy, đăng lại trên Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, nxb Văn Học, trang 423).       1993, Quốc hội xác định: Tiến quân ca là quốc ca Việt Nam.

       Văn Cao mất ngày 10/7/1995, tại Hà Nội.

 Tác phẩm:

           Ca khúc:Buồn tàn thu (1939), Thiên Thai (1941), Suối mơ (1942), Thu cô liêu (1942), Bến Xuân (1942-1945, sửa lời và đổi thành Đàn Chim Việt), Cung đàn xưa (1942), Trương Chi (1942), Vui lên đường, Gió núi, Anh em khá cầm tayChiều buồn trên Bạch Đằng Giang (1941), Gò Đống Đa (1942), Thăng Long hành khúc ca(1943), Tiến quân ca (1944), Chiến sĩ Hải quân (1945), Chiến sĩ Không quân (1945) Bắc Sơn (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945), Làng tôi (1947), Sông Lô (1947), Ngày mùa (1948) Tiến về Hà Nội (1949), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1949). Mùa xuân đầu tiên (1976)… [Thời điểm sáng tác nhiều tác phẩm không chính xác vì các tài liệu ghi khác nhau].


Nguồn: http://www.nhuygialai.com/2012/09/van-cao-cuoc-doi-va-su-kien-phan-1.html#ixzz2dXBxSe9A
(blog: Phố núi và bạn bè...) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét